Sự hình thành của cộng đồng đã tạo cho Đắk Nông nhiều loại văn hoá truyền thống có giá trị. Qua nhiều di chỉ được khai quật thì các nhà khảo cổ học đã tìm ra được nhiều dụng cụ dùng để lao động như cuốc nhỏ chân dài, rìu, bôn,…Các dấu tích của trước đây đã cho thấy đời sống sinh hoạt văn hoá của người xưa. Từ đó chúng ta thấy rằng đời sống tinh thần rất phong phú và đa dạng như là âm nhạc, trang sức, nghệ thuật trình diễn,…
Bên cạnh đó thì hệ thống lễ nghi phục vụ cho đời sống tâm linh như là lễ mừng lúa mới, lễ hội mừng mùa, lễ hội ăn cơm mới, lễ hội kết nghĩa,…. Đồng thời người dân ở đây còn sở hữu một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất đa dạng như là truyện cổ, cao dao, tục ngữ,…
Không gian văn hoá cồng chiên Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là một di sản văn hoá phi vật thể vào năm 2005. Người dân Tây Nguyên nói chung và người Đắk Nông nói riêng đã tạo nên một giá trị di sản nhân loại đó. Chỉ có đời sống của con người gắn với núi rừng, dòng sông, với ngôi nhà dài và chiếc cồng, chiếc chiêng,… thì mới làm nên được sự hấp dẫn riêng cho không gia văn hoá của Tây Nguyên.
Cồng chiêng và nghệ thuật biễu diễn cồng chiêng là một trong những nét văn hoá gắn liền với đời sống tín ngưỡng và tinh thần của người dân vùng cao. Nó được thể hiện qua các nghi thức như là ẩm thực dân gian, lễ hội,… Cồng chiêng là một loại nhạc cụ với khả năng trình diễn phải độc lập và có kết hợp với các loại nhạc cụ khác không thể thiếu trong các mùa lễ hội như quy mô nhỏ một gia đình cũng như cả cộng đồng. Đặc điểm rất nổi bật của dàn cồng chiêng này là sự kết hợp kinh hoạt giữa những tiết tấu là những âm thanh của núi rừng của tiếng suối, tiếng thác chảy và tâm hồn của người M’nông.
Đồng bào M’nông có dàn cồng chiêng để cầu xin và giã bày với thần linh cũng như ứng xử với thiên nhiên, núi rừng. Đó cũng là của cải vật chất để phân biệt giữa người nghèo và kẻ giàu, là sức mạnh vô hình được người khác kính trọng.
Mỗi tộc người của vùng Tây Nguyên có mỗi cách đánh khác nhau để phân biệt giữa các dân tộc. Âm thanh của tiếng cồng mang đến cho người nghe nhiều cảm xúc rạo rực khiến mọi người tìm đến với nhau để chung vui.
Vào những ngày lễ hội với những vòng nhảy múa quanh đóng lửa và bình rượu cần, hoà với không gian ấy là tiếng cồng chiêng vang vọng khắp núi rừng.
Trong kho tàng văn học và văn hoá của Việt Nam thì sử thi của người M’nông có một giá trị văn hoá hết sức đặc biệt. Đó là một món ăn tinh thần không thể thiếu và còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Sử thi M’nông được tạo từ hàng trăm câu văn có vần điệu và là một thể loại văn học truyền miệng có những câu chuyện mang đầm tính chất thần thoại về các hiện tượng của tự nhiên và những nhân vật lịch sử.
Hát và kể sử thi trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’nông. Có người nghệ nhân có thể nhớ đến hàng vạn câu sử thi, học còn có giọng hát hay và tiết tấu độc đáo để lưu truyền cho tới ngày nay.
Nghệ thuật hát kể sử thi rất thu hút khách du lịch đến nghe, đặc biệt vào mùa lễ hội. Tuy chưa có định hình rõ ràng nhưng nó có một ẩm hưởng và làn điệu mượt mà gắn liền với đời sống hằng ngày.
Nhạc cụ của người M’nông rất độc đáo về âm điệu cả chức năng. Âm nhạc là một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt cũng như lao động của người dân hằng ngày. Các nhạc cụ được làm bằng gỗ, tre nứa, sừng, vỏ bầu, đá,… Du làm bằng vật liệu gì nhưng những nhạc cụ ở đây rất là độc đáo. Họ dựa vào đôi ta để xác định được độ trầm bỗng của từng loại nhạc cụ. Mỗi loại nhạc cụ lại đi kèm với một câu chuyện và một hoàn cảnh khác nhau. Có loại thì dùng ở nương rẫy, có loại thì đánh trong lễ hội hoặc có loại chỉ dùng để bày tỏ tình yêu đôi lứa, có loại xua đuổi thú rừng, có loại lại dùng để giải trí,…
Đắk Nông là vùng đất hội tụ và giao thoa giữ nhiều nền văn hoá cả về vật chất lẫn tinh thần. Các lễ hội vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay như là lễ hội mừng lúa mới, lễ hội rượu cần, lễ hội trưởng thành,… Lễ hội đã tạo nên niềm hứng khởi và náo nức của con người và sức lan toả trong cộng đồng. Với quan niệm là vạn vật hữu linh thì đồng bào M’nông lại có những nghi lễ như là lễ vòng đời hay lễ nông nghiệp. Thông qua lễ hội đó để người dân tộc M’nông cầu xin lên Yàng mang lại những điều tốt lành cho buôn làng. Tất cả đều tạo nên nhiều nét văn hoá truyền thống truyền lại từ ông cha ngày xưa với núi rừng Tây Nguyên