Nằm ở bờ Bắc sông Hương, Kinh thành Huế được xây dựng trên diện tích rộng hươn 500ha, bao gồm Tử Cấm Thành và Hoàng Thành, được gọi chung là Đại Nội Đây là trung tâm chính trị và hành chính và triều Nguyễn và là nơi sinh hoạt của nhà vua và hoàng thất. Đại Nội Huế là một trong số các di tích trong Quần thể di tích Cố Đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá Thế giới năm 1993.
Cuối thế kỉ XVI, do nhiều biến động lịch sử, người Chăm và người Việt đã tạo ra một làn sóng di dân mà tiêu biểu nhất do Chúa Nguyễn Hoàng dẫn đầu vào trấn thủ đât Thuận Hoá.
Hệ thống Đại Nội Huế
Với ba toà thành lồng vào nhau là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử Cấm thành Huế tạo thành một công trình kiến trúc biểu thị cho uy quyền nhà Nguyễn. Hệ thống thành quách là một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến trúc Đông và Tây, được đặt ở trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú mà người ta mặc nhiên đó là những bộ phận của Kinh Thành Huế, đó là dòng Hương Giang, núi Ngự Bình, cồn Bộc Thanh, cồn Giã Viên,…
Đại Nội gồm 100 công trình kiến trúc khác nhau và với chức năng khác nhau. Hoàng thành được xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh được toàn bộ 100 công trình thì phải đến thời vua Minh Mạng (1833) mới hoàn tất.
Hoàng thành được giới hạn bởi một vòng tường thành , mỗi chiều dài 600m và có 4 cổng ra vào; phía Nam là cửa chính – Ngọ Môn, phía đông cửa Hiển Nhơn, phía Tây cửa Chương Đức và phía Bắc cửa Hoà Bình. Khu vực hành chính tối cao của triều Nguyễn là Ngọ Môn. Xung quanh thành là hồ được đào với tên gọi là Kim Thuỷ.
Khu vực quan trọng và rộng lớn nhất là Tử Cấm Thành, hình vuông với chiều dài mỗi cạnh là 300m, cao 3,5 m. Trong này có gần 50 công trình kiến trúc như điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều), điện Càn Thành (nơi ở của vua), cung khôn Thái (nơi ở của Hoàng Quý Phi), Duyệt Thị Đường, lầu Kiến Trung (nơi vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương ở),…
Mặc dù có rất nhiều công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau được xây dựng trong Hoàng thành nhưng tất cả đều đặt giữa phong cảnh thiên nhiên có ao, cây cối bao quanh.
Tuy có nhiều công trình khác nhau những đều xây với một kiểu nhà kép hai mái, đặt trên một nền đá cao, lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh và vỉa ốp đá Thanh, mái được lợp ngói đặc biệt hình ống tráng men ddwuwojc gọi là ngói lưu ly và hoàng ly. Các cột đưuợc sơn thiếp theo mô tiếp mây rồng. Nội thất đưuợc trang trí theo kiểu nhất thi nhất hoạ.
Hệ thống cung điện trong Hoàng thành đưuợc phân bố chặt chẽ theo từng khu vực và tuân thủ nguyên tắc tả nam hữu nữ, tả văn hữu võ.
Giá trị của Đại Nội
Cố Đô Huê ngày nay vẫn còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá vật thế và phi vật thể mang nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ của dân tộc Việt Nam. Đại Nội Huế là một công trình kết tinh về nghệ thuật, ý thức, và sự giao cảm giữa thiên nhiên, con người. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá được côi là việc làm cấp thiết nhất.
Từ khi công trình được công nhận là Di sản văn hoá thế giới cho đến nay, trung tâm Bảo tồn di tích Cố Đô Huế đã trùng tu và phục hồi hơn 132 công trình tiêu biểu. Trong đó có Ngọ Môn, điện Thái Hoà, Hiển Lâm Các, cung Diên Thọ, Thế Miếu,… Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp thiết bằng các biện pháp chống dột, chống sập, gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hoá,.. Nhờ vậy mà trong điều kiện khắc nghiệt, các di tích vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi thọ.
Bên cạnh việc trùng tu và bảo tồn, gần đây trung tâm bảo tồn đã triển khai nhiều hoạt động văn hoá tại khu di tích này. Du khách có thể tham gia vào Đêm Hoàng cung được tổ chức vào thứ 7 hàng tuần. Toàn bộ khung cảnh được tái hiện chân thực của cung đình xưa. Và ngày lễ hội Festival còn tổ chức nhiều hoạt động trong Đại Nội nhằm tái hiện lại khung cảnh huy hoàng một thời của vua nhà Nguyễn.
Đến nay, trải qua bao nhiêu biến cố của thời gian nhưng tài sản vô cùng giá trị của dân tộc, thành quả lao động của hàng vạn người vẫn luôn còn tồn tại và là một công trình chứng minh sự hưng thịnh của một triều đại cuối cùng ở Việt Nam.