Trong chuyến tham quan đến với vùng đất du lịch Huế, một địa chỉ mà du khách không nên bỏ qua chính là Đàn Nam Giao
Vào năm 1803, dưới thời vua Gia Long, tại làng An Ninh vua đặt một đàn để làm nơi các vua nhà Nguyễn tế trời đó là Đàn Nam Giao. Năm 1806, đàn được dời về phía Nam của kinh thành và nằm ở phường Trường An ngày nay. Đây là đán tế trời duy nhất và còn khá nguyên vẹn với hàng thông bao bọc xung quanh. Trước đây những cây thông này do đích thân vua và các quan trong triều trồng và chăm sóc. Đối với họ đây là chốn linh thiên nhất cần phải được giữ gìn.
Đàn gồm ba tầng, xây chồng lên nhau và tượng trưng cho “tam tài” là thiên, địa và nhân. Tầng trên cùng là hình tròn gọi là Viên Đàn, tượng trưng cho trời, xung quanh làn lan can và được quét vôi màu xanh. Trên nền có lát những viên đá Thanh được khoét lỗ tròn. Vào những ngày tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc. Tầng tiếp theo hình vuông gọi là Phương Đàn – tượng trưng cho đất, lan can quét màu vàng. Khi tế dựng lều vải màu vàng gọi là Hoàng Ốc. Tầng dưới cùng có hình vuông quét vôi màu đỏ tượng trưng cho nhân. Cả ba tầng đều có trổ cửa và bậc thang ở 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc. Xung quanh đàn còn có các công trình khác như Trai Cung – nơi dành cho vua trai giới trước vài ngày tế lễ, Thần Trù – nhà bếp và nơi chuẩn bị vật cúng tế, Thần Khố - kho chứa đồ trong cuộc cúng tế và một số công trình khác.
Theo quan điểm của người xưa, vua là con trời nên chỉ có vua mới được cúng tế trời đất, cầu cho quốc thái dân an và mưa thuận gió hoà. Lễ tế đầu tiên là vào năm 1807 và từ đó trở đi thì năm nào cũng tế lễ vào mùa xuân cho đến thời vua Thành Thái (vào năm 1907) thì đổi lại 3 năm 1 lần. Công việc chuẩn bị do bộ Công và bộ Lễ tiến hành trước đó vài tháng. Nhà vua và các quan phải tri giới ba ngày trước khi cúng tế. Dưới thời Bảo Đại chỉ còn rút ngắn xuống 1 ngày trai giới.
Người ta gọi những con vật đem tế trong dịp này là con sinh. Đó là trâu, dê và heo. Hàng chục con được vỗ béo bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám là nơi xem ngày lành tháng tốt, sau đó Vua đích thân ban chiếu dụ thông báo cho dân chúng, cho phép giảm án tù.
Dọc đường từ Đại Nội đến Đàn Nam Giao, người dân phải kết cổng chào, lập hương án đón rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ vượt qua sông Hương bằng thuyền đến Nam Giao bằng con đường gọi là “Nam Giao cựu lộ” – đường Phan Bội Châu ngày nay và “Nam Giao tân lộ” – đường Điện Biên Phủ ngày nay.
Cuộc tế lễ bắt đầu vào 2 giờ sáng, nhiều nghi lễ được tiến hành ở từng tầng đàn với sự tham gia của các quan và sự góp mặt của dàn nhạc gồm trống, khánh, chiên, chuông, tù, nhi, sáo,… 128 vũ công và văn công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khác nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau. Sau gần 3 tiếng đồng hồ buổi lễ mới kết thúc.
Lễ Tế Giao cuối cùng là dưới thời vua Bảo Đại của nền quân chủ Việt Nam vào lúc nửa đêm rạng sáng ngày 23-3-1945, 5 tháng sau thì nền quân chủ ấy bị sụp đổ hoàn toàn. Ngày nay, Đàn Nam Giao là chứng tích lịch sử còn lại trong cụm di tích triều Nguyễn và cũng là một điểm tham quan khá thu vị của du lịch cố đô Huế.